Các quy luật tự nhiên của vũ trụ nói chung và Trái Đất nói riêng được khám phá đều có sự đóng góp công sức to lớn của các nhà vật lý học.
Albert Einstein (1879 – 1955)
Albert Einstein là một thiên tài, nhà vật lý lý thuyết người Đức gốc Do Thái. Ông là một nhà vật lý lý thuyết người Đức, được coi là cha đẻ của vật lý hiện đại và cũng là người phát triển thuyết tương đối. Đây được coi là thành tựu lớn nhất trong cuộc đời ông. Có một điều thú vị rằng 3 tuổi Einstein mới biết nói và cho đến năm 8 tuổi – khi bắt đầu học đọc ông vẫn nói không thạo. Tuy nhiên ông lại bắt đầu mày mò với khoa học từ rất sớm, từ khoảng 10 tuổi ông đã bắt đầu mày mò làm các mô hình và thiết bị cơ học.
Năm 1921 ông được trao tặng Giải Nobel Vật lý. Einstein đã công bố hơn 300 bài báo khoa học và hơn 150 bài viết khác về những chủ đề khác nhau, ông cũng nhận được nhiều bằng tiến sĩ danh dự trong khoa học, y học và triết học từ nhiều cơ sở giáo dục đại học ở châu Âu và Bắc Mỹ. Những phát minh nổi bật của ông gồm: thuyết tương đối, lý thuyết lượng tử, cơ sở của vũ trụ học, định luật quang điện.
Ứng dụng thực tế:
Nghiên cứu sản xuất điện hạt nhân.
Khám phá vũ trụ.
Chế tạo máy móc phục vụ nhu cầu con người.
Niels Bohr (1885 – 1962)
Niels Bohr là nhà vật lý học người Đan Mạch gốc Do Thái. Năm 1922, ông nhận Giải Nobel vật lý với những đóng góp nền tảng về lý thuyết cấu trúc nguyên tử, phân hạch hạt nhân và phản ứng hạt nhân.
Neils Bohr, nhà vật lý nổi tiếng người Đan Mạch được biết đến với việc xây dựng lý thuyết về cấu trúc nguyên tử được công bố vào năm 1913. Ông đã chỉ ra rằng một nguyên tử có một hạt nhân ở trung tâm với các electron quay xung quanh nó. Ngoài ra ông còn tìm hiểu về cơ học lượng tử. Neils Bohr góp phần quan trọng trong sự ra đời của cơ học lượng tử.
Ứng dụng thực tế:
Nghiên cứu sản xuất điện hạt nhân.
Ứng dụng trong lĩnh vực y học, kinh tế,…
Stephen Hawking (Sinh năm 1942)
Stephen Hawking là một nhà vật lý lý thuyết, vũ trụ học, tác giả viết sách khoa học thường thức người Anh. Năm 21 tuổi, người ta chẩn đoán ông mắc bệnh thần kinh vận động và chỉ sống thêm được 2 năm. Tuy nhiên, nghị lực phi thường của ông đã giúp ông chiến thắng bệnh tật cho đến ngày hôm nay.
Trong số những công trình khoa học quan trọng của ông, nổi bật nhất là sự hợp tác với Roger Penrose về lý thuyết kỳ dị hấp dẫn trong khuôn khổ thuyết tương đối tổng quát và tiên đoán lý thuyết hố đen phát ra bức xạ (tức bức xạ Hawking). Hawking là người đầu tiên khởi đầu một nền vũ trụ học dựa trên sự thống nhất giữa thuyết tương đối tổng quát và cơ học lượng tử.
Ứng dụng thực tế: Giúp các nhà thiên văn học nghiên cứu và hiểu rõ về vũ trụ hơn.
Isaac Newton (1642 – 1727)
Isaac Newton là nhà khoa học vĩ đại, ông là nhà vật lý học, nhà thiên văn, nhà triết học, nhà toán học, nhà thần học và là nhà giả kim thuật người Anh. Chắc chắn chúng ta không còn ai lạ lẫm gì với giai thoại quả táo rơi xuống đầu giúp Newton đưa ra thuyết vạn vật hấp dẫn. Isaac Newton sinh ra trong một gia đình nông dân tại Anh sau đó được gửi lên thành phố để học tiếp trở thành một luật sư. Ngay từ đầu ngành học của ông là triết nhưng cùng lúc Newton cũng bị cuốn hút bởi toán học, quang học và cả thiên văn học.
Công trình khoa học nổi tiếng thuộc lĩnh vực vật lý của ông gồm: Lý thuyết cơ học cổ điển: mô tả về vạn vật hấp dẫn, 3 định luật chuyển động và đưa ra nguyên lý bảo toàn động lượng; Quang học cổ điển: khám phá ra sự tán sắc ánh sáng, giải thích việc ánh sáng trắng đi qua lăng kính phân chia thành nhiều màu sắc khác nhau.
Ứng dụng thực tế:
Giải thích nhiều hiện tượng liên quan đến luật hấp dẫn.
Du hành không gian và phát triển tên lửa.
Giúp các nhà khoa học hiểu được mọi chuyển động của vật chất trong vũ trụ từ chuyển động của các hạt electron cho tới chuyển động xoắn ốc của cả thiên hà.
Nikola Tesla (1856 – 1943)
Nikola Tesla là nhà vật lý, nhà phát minh, kỹ sư cơ khí và kỹ sư điện người Mỹ gốc Serb. Ông sinh ra ở Smiljan lúc đó thuộc Đế quốc Áo, sau này trở thành công dân Hoa Kỳ vào khoảng tuổi 30. Tesla được biết đến với nhiều đóng góp mang tính cách mạng trong các lĩnh vực điện và từ trường trong cuối thế kỷ 19 đầu thế kỉ 20.
Các phát minh của Tesla và các công trình lý thuyết đã làm nên cơ sở của hệ thống phát điện xoay chiều, bao gồm cả hệ thống phân phối điện nhiều pha và động cơ điện xoay chiều, giúp tạo ra Cách mạng công nghiệp lần thứ hai.
Ứng dụng thực tế: Phát minh ra xe điện, tàu điện, đèn điện, máy xay,…
Galileo Galilei (1564 – 1642)
Trước thời đại của Newton khoảng gần 200 năm, nhà khoa học nổi tiếng nhất bấy giờ là Galilei. Galileo Galilei là nhà vật lý học, nhà thiên văn học, nhà toán học, và triết học người Ý. Ông được gọi là “cha đẻ của vật lý hiện đại”, “cha đẻ của khoa học hiện đại”. Nghiên cứu nổi bật của ông về lĩnh vực vật lý đó là công trình lý thuyết và thực nghiệm về chuyển động của các thiên thể, miêu tả phương pháp thực nghiệm để đo vận tốc ánh sáng và đưa ra nguyên tắc căn bản của tương đối.
Sự chuyển động của các vật thể tăng tốc đều, được dạy ở hầu hết trong các khóa học về vật lý của các trường trung học và cao đẳng, đã được Galileo nghiên cứu trong chủ đề về chuyển động học. Những đóng góp của ông trong thiên văn học quan sát gồm vệc xác nhận các tuần của Sao Kim bằng kính thiên văn, phát hiện bốn vệ tinh lớn nhất của Sao Mộc, được đặt tên là các vệ tinh Galileo để vinh danh ông, và sự quan sát và phân tích vết đen Mặt Trời. Galileo cũng làm việc trong khoa học và công nghệ ứng dụng, cải tiến thiết kế la bàn.
Ứng dụng thực tế:
Khám phá và hiểu biết về sự chuyển động của các vật chất trong vũ trụ.
Cung cấp nền tảng căn bản cho các định luật về chuyển động của Newton và là trung tâm của thuyết tương đối của Einstein.
Marie Curie (1867 – 1934)
Marie Curie là nhà vật lý, nhà hóa học người Ba Lan – Pháp. Bà là người đầu tiên nhận hai Giải Nobel trong hai lĩnh vực khác nhau đó là vật lý và hóa học. Năm 1903, bà được nhận giải Nobel vật lý cùng với chồng là ông Pierre Curie và Henri Becquerel cho các nghiên cứu về bức xạ.
Marie Curie là giảng viên đại học nữ đầu tiên tại Đại học Paris (Sorbonne), và vào năm 1995 thi thể của bà được mai táng tại điện Panthéon ở Paris vì những đóng góp to lớn cho nhân loại. Năm 1896, Marie Curie đã phát hiện ra chất phóng xạ (được tìm thấy bởi các thuộc tính của tia X) và đưa ra kỹ thuật cô lập các chất đồng vị. Đồng thời, bà và chồng mình là Pierre Curie đã phát hiện hai nguyên tố phóng xạ radium và polonium.
Ứng dụng thực tế:
Mã hóa dữ liệu và thông tin.
Phát triển ngành công nghiệp công nghệ cao: Kiểm tra không phá hủy, Hệ điều khiển hạt nhân, Chiếu xạ công nghiệp và Kỹ thuật đánh dấu.
Richard Feynman (1918 – 1988)
Richard Feynman là nhà vật lý người Mỹ gốc Do Thái, được biết đến với công trình về phương pháp tích phân đường trong cơ học lượng tử, lý thuyết điện động lực học lượng tử, và vật lý của tính siêu lỏng của heli lỏng siêu lạnh, cũng như trong vật lý hạt với đề xuất của ông về mô hình parton. Cho những đóng góp của ông đối với sự phát triển của điện động lực học lượng tử, Feynman, cùng với Julian Schwinger và Shin’ichirō Tomonaga, nhận giải Nobel Vật lý năm 1965.
Feynman phát triển cách biểu diễn bằng hình ảnh được sử dụng rộng rãi cho các biểu thức toán học miêu tả hành xử của các hạt hạ nguyên tử, mà sau này được biết đến với tên gọi biểu đồ Feynman. Trong cuộc đời của ông, Feynman đã trở thành một trong những nhà khoa học nổi tiếng trên thế giới. Trong cuộc bầu chọn năm 1999 của tạp chí Anh quốc Physics World về 130 nhà vật lý xuất sắc trên thế giới, ông đã được xếp hạng vào một trong mười nhà vật lý vĩ đại của mọi thời đại.
Ứng dụng thực tế:
Giải thích tính siêu chảy của helium lỏng.
Xây dựng lý thuyết siêu dẫn.
Ernest Rutherford (1871 – 1937)
Ernest Rutherford là nhà vật lý người New Zealand. Ông được coi là “cha đẻ của vật lý hạt nhân”. Ông khám phá ra rằng nguyên tử có điện tích dương tập trung trong hạt nhân rất bé và từ đó đi đầu cho việc phát triển mẫu Rutherford, còn gọi là mẫu hành tinh của nguyên tử. Năm 1908, ông được nhận giải Nobel hóa học nhờ phát hiện của mình và làm sáng tỏ hiện tượng tán xạ Rutherford trong thí nghiệm với lá vàng.
Ernest Rutherford là một nhà vật lý hoạt động trong lĩnh vực phóng xạ và cấu tạo nguyên tử. Năm 1911, ông công bố một trong hai công trình quan trọng nhất của mình, đó là mô hình nguyên tử. Ông đã chứng minh rằng hạt nhân ở giữa chiếm hầu hết khối lượng của các nguyên tử. Công trình quan trọng thứ hai của ông là phát hiện ra proton năm 1920.
Từ năm 1919, ông làm việc ở Cambridge và Luân Đôn. Tại đây, ông đã thực hiện sự chuyển hóa nhân tạo đầu tiên giữa các nguyên tố bền (còn gọi là kỹ thuật giả kim thuật). Cụ thể là ông đã biến nitơ thành ôxy bằng cách dùng các hạt alpha bắn phá vào chúng.